Liên kết website Liên kết website

A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Cách mạng tháng Tám và sự phát triển của giáo dục Việt Nam

Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mở ra bước ngoặt lịch sử cho giáo dục Việt Nam, góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đây là nội dung tham luận của Thiếu tướng, TS Trần Ngọc Thanh, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Quốc phòng và An ninh, Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Hội thảo khoa học “Sức mạnh chính trị tinh thần của Cách mạng Tháng Tám 1945 - Ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới”, sáng 7/8 tại Hà Nội.

Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, Giáo dục được coi là yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững, là cội nguồn nội sinh của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhờ giáo dục và thông qua giáo dục, con người ngày càng được phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách. Chính vì vậy, sinh thời Chủ tịch, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo của đất nước. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”1; “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu”2. Từ đó, Người nhắc đến phương châm: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”3. Tuy nhiên, nền giáo dục Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới chính sách cai trị tàn bạo và chính sách ngu dân thâm độc của thực dân Pháp đã khiến đại đa số nhân dân Việt Nam sống trong tình trạng mù chữ, không hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là các quyền tự do, dân chủ mà con người được hưởng.

Hội thảo khoa học “Sức mạnh chính trị tinh thần của Cách mạng tháng Tám năm 1945 - Ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên mới”.

Trong bài viết “Hãy yêu mến nước Pháp và người bảo hộ của anh” của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết trên báo Le Libertaire, ngày 07 đến 14/10/1921 đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp hàng năm thu về từ rượu cồn và thuốc phiện: “Các nhà khai hóa của chúng ta kiếm được trên 21.000.000 đồng bạc Đông Dương, tức là hơn 139.000.000 phrăng bằng cách bán các chất độc này. Các anh có biết họ chi cho giáo dục trong một năm là bao nhiêu không? 172.000 đồng bạc Đông Dương!”1. Trước thủ đoạn thực thi chính sách ngu dân để thống trị của thực dân Pháp, đến năm 1913, cả nước Việt Nam mới chỉ có 10 vạn học sinh trong tổng dân số 20 triệu người. Từ năm 1923 đến 1930, số lượng học sinh tăng từ 187.000 người lên 434.335 người bao gồm học sinh vỡ lòng đến trung học tại trường công và tư; tổng số sinh viên cao đẳng là 436 người. Năm 1930, toàn bộ các trường có 12.000 giáo viên. Năm học 1931 - 1932, Đông Dương có 311 sinh viên.

Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tuỳ phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình. Nó làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc. Bên cạnh đó, Pháp còn đẩy mạnh tuyên truyền ca ngợi chính sách “khai hóa” của nhà nước “bảo hộ”, du nhập văn hóa đồi trụy, khuyến khích những tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút,...

Bước qua giai đoạn trì trệ, lạc hậu kéo dài

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Giáo dục nước nhà bước sang một giai đoạn đặc biệt, bước qua giai đoạn trì trệ, lạc hậu kéo dài hàng nghìn năm. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam đã hết sức quan tâm phát triển giáo dục. Ngày 02/9/1945, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, cùng lúc đối mặt với nạn đói, nạn dốt và nạn ngoại xâm. Thống kê thời kỳ đó, trong 100 người thì có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi đi học và 2 người lớn biết chữ, còn 95 người thất học. Có những làng không một người nào biết chữ.

Trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sáu việc cấp bách, chống nạn mù chữ xếp thứ hai, chỉ sau nạn đói. Bác nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”. Ngày 08/9/1945, Chính phủ ban hành liền ba sắc lệnh số 17, 19 và 20. Theo đó, Nha Bình dân học vụ được ra đời nằm trong Bộ Quốc gia Giáo dục, hạn trong 6 tháng làng và thị trấn nào cũng phải có “ít ra là một lớp bình dân” và cưỡng bách học chữ quốc ngữ trên toàn quốc. Hồ Chủ tịch ra bản hiệu triệu đồng bào tham gia chống nạn mù chữ, khuyên người chưa biết chữ phải thi đua đi học, những người đã biết phải thi đua dạy học; kêu gọi mọi người, kẻ giúp của, người giúp công để tiêu diệt giặc dốt.

Nha Bình dân học vụ liên tiếp tổ chức các lớp huấn luyện. Khóa đầu tiên mang tên “Hồ Chí Minh”, khai mạc ở Hà Nội sau đúng một tháng thành lập Nha, kéo dài 10 ngày. Tiếp đó là khóa “Phan Thanh” ở Huế vào tháng 11, đặt nền móng bình dân học vụ ở Trung Bộ. Đến tháng 7/1946, khóa huấn luyện khác mang tên “Đoàn kết” dành cho đồng bào dân tộc thiểu số. Riêng miền Nam, sau khi Nha Bình dân học vụ thành lập được nửa tháng thì thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nên dù cử một số cán bộ vào gây dựng cơ sở, phong trào ở đây không duy trì mạnh mẽ. Tất cả lực lượng bình dân học vụ đổ dồn vào trừ nạn mù chữ. Họ dùng khẩu hiệu viết, kẻ, dán ở từng nhà, trên mặt đường, thân cây; hô trong các buổi phát thanh, đám rước đuốc, diễu hành để tuyên truyền. Nhiều người cảm phục nên bỏ tiền mua giấy bút cho học viên, người bỏ công đi dạy.

Bác Hồ thăm một lớp Bình dân học vụ trong kháng chiến. Ảnh tư liệu

Chỉ sau 3 tháng, hàng trăm “lớp học i, tờ” (hai chữ trong bài đầu tiên) mở ra từ thành thị đến thôn quê, rừng núi. Giáo viên đủ các giới, hạng tuổi. Không có lương bổng, họ vẫn vừa dạy học, vừa làm cổ động học viên, xây dựng trường, tìm kiếm học phẩm. Có những phụ nữ vừa cho con bú vừa học, những cụ già đầu tóc bạc phơ vẫn đến lớp. Có người phải đốt đuốc đi 2 - 3 cây số xuyên rừng, lội suối đến lớp học. Nhiều người khuyết tật cũng không chịu mù chữ, trong đó có chị Huỳnh Thị Chính, 17 tuổi, ở Liên khu 5, cụt cả hai tay, phải buộc bút vào cánh tay tập viết. Tuy nhiên, vẫn còn những người vì sinh kế hoặc ngại ngùng mà chưa đi học. Nha Bình dân học vụ phải tổ chức mít tinh, ca kịch, triển lãm để lồng ghép giới thiệu lợi ích của sự học, chứng minh học chữ quốc ngữ “dễ, chóng biết và vui vẻ”. Các đoàn cổ động dùng những câu ca dao dí dỏm để tuyên truyền, như: “Lấy chồng biết chữ là tiên/ Lấy chồng mù chữ là duyên con bò”.

Ở một số nơi, trạm kiểm soát chữ được lập ra, ai muốn qua phải đọc được chữ, còn không thì được mời vào lớp bên cạnh để giáo viên dạy học thử. Ở nhiều con đường, cổng chợ, cán bộ bình dân học vụ dựng một cổng có hai cửa. Một cửa cao rộng để người biết chữ đi qua, một cửa thấp hẹp để ai mù chữ phải bò qua. Dần dần, học viên đến lớp ngày một đông. Phong trào bình dân học vụ duy trì ngay cả khi thực dân Pháp quay lại xâm lược. Dựa trên tình hình thực tế, có lớp lưu động cho chị em đi làm ruộng; có lớp cho đồng bào tản cư trong các lán bí mật; có lớp học lộ thiên ở bến đò, cổng chợ; lớp học ở các chợ Hôm, Đồng Xuân (Hà Nội), Sắt (Hải Phòng), Vinh (Nghệ An) cho người buôn bán; lớp ở vùng tạm bị chiếm. Lớp học mở 1 - 2 tiếng mỗi ngày tùy theo sự thuận tiện của học viên và hoàn cảnh địa phương.

Cuộc cải cách giáo dục đầu tiên

Với thắng lợi của Chiến dịch Biên giới, năm 1950 cũng là dấu mốc quan trọng của nền giáo dục khi Chính phủ quyết định mở cuộc cải cách giáo dục đầu tiên, phát triển hệ thống giáo dục 9 năm giáo dục phổ thông phù hợp với hoàn cảnh lúc đó; đưa phong trào bình dân học vụ lên sơ cấp, trung cấp (dù bình dân học vụ nhưng cũng có trình độ như cấp 2). Hệ thống này sau gọi là hệ bổ túc văn hóa, cùng hệ thống giáo dục phát triển từ Việt Bắc đến Khu 5 và một phần các tỉnh miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Theo đó, tất cả các tỉnh đều có trường cấp 2; tất cả các Khu đều có trường cấp 3 và chuyển dần từ hệ thống giáo dục cũ sang hệ thống giáo dục mới. Mặc dù kháng chiến nhưng hệ thống trường học từ khu đến tỉnh phát triển rất mạnh. Đây là bước tiến dài so với thời gian trước Cách mạng Tháng Tám. Những năm 1950, Chính phủ đã mở các trường đại học như: Đại học Y khoa ở Việt Bắc, Đại học Sư phạm ở Thanh Hóa,… Cao đẳng Giao thông ở Thanh Hóa, đào tạo cán bộ có trình độ cao phục vụ chiến trường, phục vụ dân sinh,... Bên cạnh đó, một lực lượng không nhỏ cán bộ được đào tạo tại nước ngoài để trở thành những đội ngũ cốt cán của nước nhà sau này.

Sự phát triển hệ thống giáo dục nên đã đáp ứng được một phần nhân lực có trình độ, phục vụ trong các cơ quan, đơn vị của Quân đội nhân dân 242 Việt Nam; nhất là những đơn vị cần có trình độ học vấn tốt, như pháo binh, tên lửa, phòng không, không quân, các ngành công nghiệp, cũng như các ngành khác để thực hiện khẩu hiệu “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trung ương và Chính phủ bắt đầu cuộc cải cách lần hai vào năm 1956. Như thế, mỗi thời kỳ hòa bình đều có dấu mốc phát triển lớn về giáo dục. Tuy kháng chiến ở miền Nam ác liệt là vậy nhưng tư tưởng phát triển giáo dục theo đường lối của Đảng và Trung ương luôn được đề cao. Cả miền Bắc và các khu vực giải phóng, khu vực tạm chiếm ở miền Nam đều được mở trường mới. Thậm chí ngay Trung ương cục miền Nam cũng đã mở Trường Sư phạm Giải phóng.

Lớp bổ túc văn hoá của cán bộ huyện Quế Phong, Nghệ An năm 1967. Ảnh tư liệu

Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1979, Trung ương và Chính phủ lại chuẩn bị một bước phát triển mới của giáo dục bằng Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị, thực hiện khẩu hiệu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài của nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình. Tuy nhiên, Nghị quyết 14 ra đời vào thời điểm đất nước gặp khó khăn nên không có điều kiện để triển khai nhưng chủ trương phát triển giáo dục vẫn được kiên trì và tiếp nối ở Đại hội VI năm 1986. Giai đoạn này, ngành giáo dục phải đối mặt với không ít thăng trầm khi nhiều nhà giáo không đứng lớp, học sinh bỏ học, một số trường giải thể. Năm 1987, dưới sự chỉ đạo của Trung ương và Chính phủ, ngành giáo dục đã đưa ra khẩu hiệu: Giữ vững ổn định và phát triển, nhằm khôi phục và đưa sự nghiệp giáo dục thoát khỏi khó khăn; tiếp tục thực hiện đường lối phát triển của Đảng, tiếp tục phong trào xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Tháng 12/2000, Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu này và công bố với thế giới. 10 năm tiếp theo, Việt Nam tiếp tục phổ cập giáo dục trung học cơ sở và hoàn thành vào năm 2010.

Nhiều thành tựu đáng kể và được thế giới đánh giá cao

Kết quả của những nỗ lực không ngừng đó của ngành giáo dục là trong báo cáo về phát triển con người của Liên hợp quốc đã công nhận sự phát triển của giáo dục Việt Nam. Dù chúng ta đã phải anh dũng hy sinh tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng đất nước kéo dài 30 năm và sau đó phải gánh chịu những khủng hoảng, cấm vận, nền kinh tế ở mức trung bình nhưng nền giáo dục đã giành được những thành tựu đáng kể và được thế giới đánh giá cao.

Với 94% người Việt Nam biết chữ, từ năm 1990, Liên hợp quốc đã công nhận chỉ số phát triển con người của Việt Nam đạt 0,463. Trong những năm đổi mới, chỉ số này tăng lên là 0,610 đưa Việt Nam vào trong top những nước có trình độ phát triển cao. Từ đó đến năm 2013, chỉ số này là 0,638, đứng thứ 121/190 nước và vùng lãnh thổ. Riêng về chỉ số giáo dục qua tiêu chí về người biết chữ, chúng ta xếp hạng cao, đứng ở khoảng trung bình (đứng thứ 70 - 80) trong các nước thành viên của Liên hợp quốc. Nhiều năm nay, khoảng 20 - 25% dân cư được đi học. Chúng ta đã có một hệ thống giáo dục từ mầm non đến đại học và sau đại học hoàn chỉnh. Đặc biệt, tại các kỳ thi quốc tế, nhất là các môn Toán và Tin học, Việt Nam luôn đứng ở trong top 5 hoặc top 10 thế giới.

Trong tình hình hiện nay, giáo dục quốc phòng và an ninh còn trực tiếp góp phần tạo ra khả năng, phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước. Đó là bài học lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và là kinh nghiệm sống còn của các nước trên thế giới. Điều 4 của Luật giáo dục quốc phòng và an ninh xác định mục tiêu giáo dục quốc phòng và an ninh là: Giáo dục cho công dân về kiến thức quốc phòng và an ninh để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Theo đó, mục tiêu cụ thể của giáo dục quốc phòng và an ninh hiện nay là góp phần đào tạo con người mới phát triển toàn diện; có hiểu biết những nội dung cơ bản về quốc phòng, an ninh, về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc, về trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trong bảo vệ Tổ quốc; nêu cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức cảnh giác cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động; có kiến thức cơ bản về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng và an ninh; có kỹ năng hoạt động quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau 40 năm đổi mới, nền giáo dục nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người 244 nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Chất lượng từng bước được nâng lên, hệ thống giáo dục quốc dân từng bước được hoàn thiện, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, giáo dục, đào tạo vẫn còn không ít những hạn chế về nhận thức và tổ chức thực hiện cần sớm được khắc phục. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khoá XI nhấn mạnh: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục, đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Đây là định hướng lớn và đang được các cấp, các ngành triển khai tích cực nhằm tạo nên những bước chuyển căn bản, toàn diện trong giáo dục Việt Nam hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo, yêu cầu phải xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Bên cạnh đó, xác định rõ mục tiêu của giáo dục và đào tạo trong giai đoạn tới, nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Kết luận số 91-KL/TW, ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW khẳng định: Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục quốc phòng, an ninh gắn với việc xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam. Theo đó, cần phải nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trong đó có giáo dục quốc phòng và an ninh cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt cho đội ngũ cán bộ, công chức và học sinh, sinh viên.


Nhà trường tổ chức nhiều hoạt động trải nghiệm kĩ năng sống, giáo dục quốc phong an ninh cho tập thể cán bộ giáo viên và học sinh

Trong những năm qua đối với cấp tiểu học, trung học cơ sở được thực hiện dạy học lồng ghép giáo dục quốc phòng và an ninh theo Thông tư số 08/2024/TT-BGDĐT, ngày 15/5/2024 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Hướng dẫn lồng ghép nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh trong 245 trường tiểu học, trường trung học cơ sở và trường trung học phổ thông có nhiều cấp học. Đối với cấp trung học phổ thông quán triệt và thực hiện nghiêm túc chương trình, nội dung giáo dục quốc phòng và an ninh theo Thông tư số 46/2020/TT-BGDĐT, ngày 24/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về “Ban hành Chương trình môn học giáo dục quốc phòng và an ninh cấp trung học phổ thông”. Các cơ sở giáo dục đại học các đại học, học viện, trường đại học, trường cao đẳng sư phạm thực hiện theo quy định tại Thông tư số 05/2020/TT-BGDĐT, ngày 18/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về “Ban hành Chương trình giáo dục quốc phòng và an ninh trong trường cao đẳng sư phạm và cơ sở giáo dục đại học”.

Trong lịch sử sự nghiệp giải phóng dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng như hiện nay, sự phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ Quốc phòng nói chung và Bộ Tổng Tham mưu nói riêng luôn chặt chẽ, thúc đẩy, tạo điều kiện cho nhau giúp hai Bộ hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ cao quý mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Công tác phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ Quốc phòng được hình thành từ rất sớm. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò sĩ quan biệt phái ra Bộ Giáo dục và Đào tạo (Ban Quân sự, Bộ Giáo dục, được thành lập theo Nghị định 511-TTg, ngày 19/11/1958 của Thủ tướng Chính phủ, tiền thân của Vụ Giáo dục quốc phòng và An ninh hiện nay). Từ ngày đó đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hợp tác, phối hợp với Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng trong xây dựng hệ thống trường Quân đội lớn mạnh, trong xây dựng đội ngũ sinh viên, giáo viên, giảng viên nhập ngũ có chất lượng cao vào Quân đội, góp phần to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay.

Hơn nửa thế kỷ qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu đã phối hợp chặt chẽ, chủ động, toàn diện trên các mặt trong lãnh đạo, chỉ đạo ban hành các văn bản; quy hoạch các trung tâm giáo dục quốc phòng, an ninh và các cơ sở liên kết; đổi mới nội dung chương trình; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên; cơ sở vật chất ngày càng được tăng cường bảo đảm tốt yêu cầu thực tiễn trong dạy và học; công tác chính sách, bảo đảm kinh phí trong giáo dục quốc phòng, an ninh góp phần 246 quan trọng cùng quân dân cả nước giành được chiến thắng trong công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, công tác giáo dục, đào tạo trong Quân đội đã được triển khai quyết liệt, đồng bộ, toàn diện và đạt nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Quân đội có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Sau hơn 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong Quân đội (Quyết định số 2523/QĐ-BQP, ngày 15/7/2013) và thực hiện Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo trong quân đội, công tác giáo dục, đào tạo trong hệ thống nhà trường trong Quân đội đã có những bước phát triển, giữ vững chất lượng đào tạo, từng bước tiếp cận nền khoa học quân sự hiện đại, phương pháp giáo dục tiên tiến của quân đội các nước trong khu vực và thế giới. Công tác quy hoạch hệ thống nhà trường Quân đội có nhiều tiến bộ. Sau nhiều năm nỗ lực triển khai thực hiện, đến nay, hệ thống nhà trường Quân đội đã được đầu tư, quy hoạch, xây dựng ngày càng chính quy, mẫu mực, hiện đại, bảo đảm tinh, gọn, hoạt động hiệu quả, vừa phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực hiện tại, vừa đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong tương lai. Hệ thống kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của các trường được đầu tư xây dựng ngày càng chuẩn hóa, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo có tính đặc thù của từng trường, đồng thời đi tắt, đón đầu các công nghệ hiện đại. Một số nhà trường Quân đội đã được quan tâm thí điểm đầu tư, xây dựng theo mô hình “Nhà trường thông minh tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; tiêu biểu là Học viện Quân y và Học viện Kỹ thuật quân sự đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là trường trọng điểm quốc gia.

Trong giai đoạn đổi mới, đặc biệt sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013; Kết luận số 91-KL/TW, ngày 12/8/2024; Nghị quyết số 51/NQ-CP, ngày 18/3/2025 của Chính phủ ban 247 hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 91 KL/TW, ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế”, ngành giáo dục đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước. Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng cao trình độ đào tạo, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, các đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn, bình đẳng giới được bảo đảm. Qua đó, chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh “thế trận lòng dân”, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa trong mọi tình huống.


moet.gov.vn
Đang online: 37
Lượt truy cập hôm nay: 2.430
Hôm qua: 9.342
Trong tháng: 70.604